1 (877) 789-8816 clientsupport@aaalendings.com

Tin thế chấp

Dựa trên lịch sử của ngành Ngân hàng Hoa Kỳ, sự khác biệt giữa người cho vay thế chấp và ngân hàng bán lẻ là gì?

FacebookTwitterLinkedinYouTube

21/11/2022

Lịch sử ngân hàng Mỹ

Năm 1838, Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Ngân hàng Tự do, cho phép phát triển tự do khu vực tài chính thời kỳ đầu.

Vào thời điểm đó, bất cứ ai có 100.000 USD đều có thể mở ngân hàng.

 

Ngành ngân hàng cho phép các doanh nghiệp hỗn hợp, các ngân hàng thương mại có thể xử lý các giao dịch cho vay, nhưng cũng tham gia vào ngân hàng đầu tư và bảo hiểm, nghĩa là các ngân hàng không chỉ nhận tiền gửi từ người gửi tiền mà còn lấy tiền của người gửi tiền để đầu tư rủi ro.

Do đó, số lượng ngân hàng Mỹ tăng lên nhanh chóng, bị thu hút bởi các yêu cầu đầu vào thoải mái và những lợi ích to lớn.

Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của ngành ngân hàng, việc thiếu các tiêu chuẩn và giám sát thống nhất đã dẫn đến sự hỗn loạn trong ngành ngân hàng.

Trong cuộc Đại suy thoái năm 1929, khi các ngân hàng liều lĩnh sử dụng tiền của người gửi tiền để đầu tư rủi ro, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ đã gây ra một cuộc tháo chạy khỏi các ngân hàng và hơn 9.000 ngân hàng đã phá sản trong vòng ba năm – một hoạt động hỗn hợp được coi là nguyên nhân chính. trong việc gây ra cuộc Đại suy thoái.

Năm 1933, Quốc hội ban hành Đạo luật Glass-Steagall, cấm hoạt động hỗn hợp của các ngân hàng và tách biệt nghiêm ngặt hoạt động của ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại, có nghĩa là tiền gửi của các ngân hàng thương mại chỉ có thể có rủi ro thấp.

Ngân hàng JP Morgan như chúng ta biết cũng đã phải tách thành Ngân hàng JP Morgan và Ngân hàng Đầu tư Morgan Stanley vào thời điểm đó.

những bông hoa

Lúc này, ngành ngân hàng Mỹ bước vào giai đoạn tách biệt.

Trong thời kỳ này, ngành ngân hàng vận hành một hoạt động kinh doanh tương đối thống nhất và cả phạm vi kinh doanh lẫn quy mô kinh doanh đều bị hạn chế ở một mức độ nào đó.

Tháng 12/1999, Đạo luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính được thông qua tại Mỹ, xóa bỏ ranh giới giữa ngân hàng, tổ chức chứng khoán và tổ chức bảo hiểm về phạm vi kinh doanh, chấm dứt gần 70 năm xa cách.

 

“Kiếp trước” của các khoản thế chấp

Ban đầu, các khoản vay thế chấp chủ yếu là các khoản vay Balloon Payment trong thời gian ngắn hoặc trung hạn.

Tuy nhiên, những khoản vay này rất nhạy cảm với những thay đổi của giá nhà đất, và khi cuộc Đại suy thoái bắt đầu, giá nhà đất tiếp tục giảm và các ngân hàng phải đối mặt với số nợ khó đòi lớn, tạo ra một vòng luẩn quẩn dẫn đến việc người dân mất nhà cửa và một số lượng lớn tài sản. các ngân hàng sắp phá sản.

Sau cuộc khủng hoảng, để kích thích nền kinh tế và giải quyết vấn đề nhà ở của người dân, Hoa Kỳ bắt đầu hỗ trợ người dân vay thế chấp dưới hình thức bảo lãnh của chính phủ.

Hiệp hội Thế chấp Quốc gia Liên bang (FNMA hoặc Fannie Mae) được thành lập vào năm 1938 chủ yếu để mua các khoản thế chấp được bảo đảm bởi Cục Quản lý Nhà ở Liên bang (FHA) và Cơ quan Quản lý Cựu chiến binh (VA) và bắt đầu mua các khoản thế chấp thông thường được chính phủ bảo đảm vào năm 1972.

những bông hoa

Vào thời điểm đó, thị trường thế chấp nói chung vẫn còn rất rối loạn và dựa trên nền tảng phân khúc, các ngân hàng đầu tư dần dần phát hiện ra rằng thông qua chứng khoán hóa tài sản, họ có thể phân tách một khoản vay thế chấp nhà ở với số tiền lớn thành một số lượng lớn các khoản vay thế chấp. trái phiếu với số lượng nhỏ hơn, giúp cải thiện đáng kể tính thanh khoản.

Do đó, vào năm 1970, chính phủ đã thành lập Công ty Thế chấp Nhà Liên bang (FHLMC hay Freddie Mac) để phát triển toàn diện thị trường thứ cấp cho các khoản thế chấp nhà ở.

Việc thành lập Freddie Mac đã trực tiếp góp phần phát triển thị trường thứ cấp cho các khoản thế chấp nhà ở và tạo tiền đề cho việc chứng khoán hóa thế chấp.

 

Sự khác biệt giữa người cho vay thế chấp và ngân hàng bán lẻ

Khi người đi vay đang cân nhắc việc đăng ký vay mua nhà, hai cách phổ biến nhất là đến trực tiếp ngân hàng (Ngân hàng bán lẻ) hoặc đến nhà môi giới thế chấp (Người cho vay thế chấp).

Mặt khác, ngân hàng bán lẻ (ngân hàng thương mại) thường là một công ty hỗn hợp cung cấp các khoản thế chấp cũng như các dịch vụ tài chính như tiết kiệm, thẻ tín dụng, cho vay mua ô tô và đầu tư.

Khi người đi vay tiếp cận một ngân hàng cụ thể, họ sẽ chỉ có quyền truy cập vào thông tin và dịch vụ của ngân hàng đó và các dịch vụ của ngân hàng thường bị giới hạn ở chính khoản vay, gây khó khăn cho việc tích hợp đầy đủ những mối quan hệ phức tạp giữa nhà và khoản vay.

Mặc dù phí của ngân hàng bán lẻ có thể thấp hơn, nhưng người cho vay thế chấp thường cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hơn, phản hồi nhanh hơn và nhiều lựa chọn sản phẩm hơn cho nhiều đối tượng hơn.

Người cho vay thế chấp có thể cung cấp cho người vay tư vấn tín dụng toàn diện và chuyên nghiệp, giúp khách trả lời nhiều câu hỏi phức tạp về các khoản vay và danh mục tài chính, đồng thời tìm ra sản phẩm phù hợp nhất cho người vay trong số hàng chục sản phẩm.

Điều này cũng có nghĩa là vị thế của người cho vay sẽ thuận lợi hơn đối với người đi vay vì họ có nhiều lựa chọn hơn và lợi ích hữu hình hơn.

 

Có thể nói, việc tìm được người cho vay thế chấp tốt và người khởi tạo khoản vay thế chấp tốt có thể giúp người vay tiết kiệm tiền bạc, thời gian và có được thông tin sản phẩm tốt nhất ngay lần đầu tiên.

Phát biểu: Bài viết này được chỉnh sửa bởi AAA LENDINGS;một số cảnh quay được lấy từ Internet, vị trí của trang web không được thể hiện và không được phép in lại nếu không được phép.Có những rủi ro trên thị trường và đầu tư nên thận trọng.Bài viết này không phải là lời khuyên đầu tư cá nhân và cũng không tính đến các mục tiêu đầu tư cụ thể, tình hình tài chính hoặc nhu cầu của người dùng cá nhân.Người dùng nên xem xét liệu bất kỳ ý kiến, quan điểm hoặc kết luận nào trong tài liệu này có phù hợp với tình huống cụ thể của họ hay không.Đầu tư phù hợp với rủi ro của riêng bạn.


Thời gian đăng: 22-11-2022